Danh từ huyệt vị châm cứu – Phần 15: Túc Thiếu Âm Thận Kinh
Thursday, December 18, 2014 23:54
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
IX.TÚC THIẾU ÂM THẬN KINH
(Khí huyệt của thận đi qua phần âm ít ở chân)
-Túc thiếu âm thận kinh chủ trị :
« Nội kinh » nói rằng : Cái thận, chức vụ tác cường, kỹ xảo từ đó mà ra. Cái thận, chủ ẩn náu, cái gốc của sự chứa kín, Tinh ở đó.
Phương Bắc, màu đen, thông vào với thận, khai khiếu ở tai, tàng tinh ở thận, làm bệnh ở khe háng. Vị đó mặn, loại là nước, súc là lợn, là cốc đậu, là ứng 4 mùa, trên trời thấy sao Thìn là đã biết bệnh đó tại xương, âm là Vũ, số là 6, mùi là khai, dịch là nước bọt.
Phương Bắc sinh ra nước lạnh, lạnh sinh ra nước, nước sinh vị mặn, mặn sinh thận, thận sinh ra xương, tủy, tủy sinh can. Thận chủ tai ở trên trời là lạnh, ở đất là nước, ở thể là xương, ở tạng là thận, ở tiếng là rên, ở biến động là run rẩy, ở chí là sợ hãi, sợ hãi hại thận, lo nghĩ thắng sợ hãi, hàn hại huyết, táo thắng hàn, mặn hại huyết, ngọt thắng mặn.
-Túc thiếu âm thận kinh huyệt ca :
Túc Thiếu âm thận huyệt có 27, Dũng tuyền, Nhiên cốc, thêm Thái khê
Đại chung, Thủy tuyền thông Chiếu hải, Phục lưu, Giao tín, Trúc tân thực
Âm cốc trong gối, sau xương chày. Đoạn trên, từ chân lên đến gối,
Hoành cốt, Đại bách, nối Khí huyệt, Tứ mãn, Trung chú, Hoang du (ngang) rốn,
Thương khúc, Thạch quan, Âm đô kín, Thông cốc, U môn giãn (ra) thốn rưỡi,
Bỏ đo trên bụng chia mười một (+-), Bộ lang, Thần phong, ngực Linh khư,
Thần tàng, Húc trung, Du phủ hóa.
Cộng cả hai bên trái phải là 54 huyệt
Đây là một đường dọc bắt đầu ở Dũng tuyền, hết ở Du phủ. Lấy Dũng tuyền, Nhiên cốc, Thái khê, Phục lưu, Âm cốc làm Tỉnh, Vinh, Du, Kinh, Hợp.
Mạch bắt đầu ở chỗ dưới ngón út, lệch chéo theo lòng bàn chân ra ở phía dưới Nhiên cốc, đi theo sau mắt cá trong, tách ra chui vào giữa gót chân, lên cạnh trong bắp chân, lên cạnh trong và sau đùi, xuyên vào xương sống, có nhánh nối ngang sang bàng quang, còn như đườg đi thẳng, từ thận đi lên xuyên qua gan, hoàn cách và trong phế, đi theo hầu họng kẹp hai bên cuống lưỡi, còn như nhánh từ phế ra nối ngang sang tâm, trú ở trong ngực, nhiều khí ít huyết, giờ Dậu khí huyết trú ở đó.
Tạng quý, thủy đó mạch ở xích bộ bên trái, một tạng mà hai hình bên trái tên là thận, con trai thì chứa tinh, bên phải tên là mệnh môn, con gái thì đó là hệ thống dạ con. Là gốc của nguyên khí, là nhà của tinh thần, bị bệnh cùng quay về bàng quang, xét chứng trạng chia 2 phần thủy hỏa.
-Đạo dẫn bản kinh:
Người ta bẩm khí của thiên địa mà có sự sống. Cái tinh của Thái cực ngụ ở đó, ta đây có vững vàng mà đầy đủ lớn mạnh ở giữa 2 nơi. Người ta chỉ lấy tình để dụ dỗ, lấy vật để lôi kéo, lấy cái hữu hạn đó làm trời thật, theo không cùng để phóng tùng lòng dục, tiêu hao ngày càng quá lắm. Trong không có chủ ở chỗ đó thì một bầy tà thừa ở đó, mà bách bệnh hoành hành. Như một cái động mở 4 cửa để nạp đầy thêm, mấy nỗi mà không đưa đến bại? Đã từ ngày xưa, Thánh nhan đảm nhiệm nhiều cái mạng mà xem xét, bắt đầu từ mờ sáng êm đềm, chọn riêng một khoảng trời cao dầy, từ từ hít thở cúi ngửa, thành ra người có đạo thuật rồi đó.
Cũng lấy một cái đạo chỉ yên lặng, thần sảng khoái, không buồn rầu, làm cho ta vững vàng là đúng. Thường làm chủ được một thân mình thì Vinh Vệ đi khắp vòng quanh, rà không thể tự nhập. Cái phong hàn thử thấp nào đó, ví dụ như cái thành vững chắc kẻ cướp ở ngoài tuy gót chân chúng luôn đến nhòm ngó, nhưng nghiệt thay làm sao mà đạt được mong muốn bừa bãi.
Nếu đi gọi thầy thuốc, biện chứng theo phương ẩn mạch làm tê, liệu bỗng chốc thu được công hiệu theo như chỗ đã nêu trên hay không? Nhưng kẻ cướp đến mà ngăn cản, làm sao như không có kẻ cướp để có thể ngăn cản? Bệnh đến mà chữa, làm sao như không có bệnh mà để có thể chữa. Với việc cầu kim thạch hiếm quý mà thường mắc nạn bất túc, làm sao như cầu cái tinh của thân ta mà bằng tự có thừa.
Theo Hoàng đến Kỳ Bá vấn đáp nói rằng: Trẫm thể theo lệnh, duy giữ thái hòa mà Tần Thiên quân được cái đó. Cũng đúng như cái ý đó, Tiên Thánh nói: Trời đất đại quý là châu, ngọc, thân người đại quý là tinh, thần.
“Nội kinh” nói: Người con trai con gái mà đại dục thì còn gì. Nói thật ra là lấy cái lý hạn chế dục để giao ngự tình, tuy sắc đẹp ở ngay trước mắt, chẳng qua cũng vui mắt thỏa chí mà thôi, làm sao có thể phóng túng cái tình để đưa ma cái tinh. Cho nên nói dầu hết thì đèn tắt, tủy kiệt thì người không còn, thêm dầu thì đèn trắng, bổ tủy thì người mạnh. Lại nói: Tháng Đông trời đất bế, khí huyết tàng dương ẩn ở trong, tâm cách nhiều nhiệt, nhất thiết tránh làm cho ra mồ hôi (phát hãn pháp) để tiết dương khí, đó là nói rằng bế tàng. Nước đóng băng, đất rạn nứt, không nhiễu ở dương, sớm nằm tối dậy, tất đợi mặt trời sáng, làm cho chí như phục, như ẩn náu, như có ý riêng, như đã có được, bỏ lạnh thành ấm, không tiết bì phu, làm cho khí thường thường đoạt lất, đó là ứng với khí đông, nuôi giữ đạp ấy.
Ngược lại như thế thì hại thận, đến mùa xuân thì nuy, quyết. Người ta nên uống rượu cổ bản ích thận, để đón dương khí, không thể quá ấm để hại mắt, cũng không thể quá say để cảm hàn. Như mùa đông thương ở hàn, xuân đến tất ôn bệnh. Theo Tiên Vương đó là tháng đóng cửa, làm cho vừa mức giữa tinh huyền (tinh của thận), được hình ảnh thì quên lời, phân biệt với đạo mà xem xét. Hay đem lại cho giống cái bằng chứng về sự trông nom, trước giờ Tý, sau giờ Ngọ dùng thần mà chiếm. Đó là đã đem nguyên tinh luyện giao cảm chi tinh, Ba vật hỗn hợp, so với đạo hợp thật, tự nhiên nguyên tinh vững chắc, mà giao cảm tinh không bị dò đi, phép vệ sinh trước đó đã đủ (Thường văn chi viết, thản nhiên thành nhất thủ tinh huyền, đắc tượng vong ngôn biện đạo khán, bảo bã hỗn môn bằng lý cố, tứ tiền ngọ hậu dụng thần chiếm). Trước cái thận có thể nói Tinh trọn vẹn không nghĩ đến dục, khí trọn vẹn không nghĩ đến ăn, thần trọn vẹn không nghĩ đến ngủ, đó là lời kết thúc.
CÁCH TÌM ĐÚNG HUYỆT:
1.DŨNG TUYỀN: 涌泉
•Con suốt phun nước ngược lên
•Có tên là Địa xung- Huyệt Tỉnh Mộc
-Vị trí : Ở chính giữa phía trước lòng bàn chân, nằm ngửa, quặp ngón chân vào phía trước lòng bàn chân sẽ thấy có một hố lõm hình chữ NHÂN, tiếp giáp phần da dày chai và da mỏng hơn ở lòng bàn chân. Chỗ dó mạch túc thiếu âm thận xuất là Tỉnh, Mộc. Thực thì tả ở đó.
-Cách châm cứu : Châm đứng kim sâu 3 – 5 phân, cứu 3 mồi, hơ 5’
-Chủ trị : Đau bên đầu, trẻ em kinh phong cổ giật, say nắng, hôn mê, cao huyết áp, bệnh tin thần, mất ngủ, bệnh thần kinh chức năng, đau đỉnh đầu, chi dưới bại liệt, đầu choáng, mắt dính dính, họng sưng, lưỡi khô, mũi chảy máu, đái ỉa đều không dễ, ỉa chảy, sán khí, thủy thũng,
+Đau hết 10 đầu ngón chân, thi quyết, mặt đen như màu than, ho mửa có máu, khát mà xuyễn, ngồi thì muốn đứng dậy, mắt mờ mờ không nhìn thấy, hay sợ hãi, cẩn thận như người ta muốn nắm vịn lấy, hơi lên khô họng, tim buồn bẳn, tim đau, vàng da, giãn ruột, cạnh trong và sau đùi đau, teo đờ, ham nằm, ưa buồn ngáp, bụng dưới đau cấp, ỉa mà có cảm giác nặng ở dưới, ống chân nặng nghịch, đau thắt lưng, kết nhiệt trong tim, phong chẩn, không muốn ăn, ho hắng mà mình nóng, lưỡi co mất tiếng, ngực sườn tức bứt rứt, đau hết 5 đầu ngón tay, dưới bàn chân nóng, con trai như cổ trướng, con gái như chửa, đàn bà không có con, xoay bọng đái không đái được, hay quên.
Đời Hán Tề Bắc Vương A Mẫu bị bệnh nạn Nhiệt Quyết, Thuần Vũ châm ở lòng bàn chân khỏi ngay.
-Tác dụng phối hợp : Với Hành gian trị bệnh tiêu khát (đái đường), với Túc tam lý có tác dụng nâng huyết áp, kích thích khỏe tim, trị chứng trúng độc bất tỉnh, với Thiếu thương, Nhân trung trị trẻ em kinh phong, với Nhân trung, Lao cung, Hưng phấn trị bệnh tinh thần mà biểu lộ tình cảm nhạt nhẽo, với Quan nguyên trị hư lao ho hắng, với Thái xung chữa trong họng đau không thể ăn vào được.
2.NHIÊN CỐC: 然谷
•Cái hang đó
•Có tên là Long uyên- Huyệt huỳnh Hỏa