Ở chiều tác động ngược lại, bản thân cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong lịch sử cũng giúp định hình nền tài chính hiện đại. Bài học lớn được rút ra từ cuộc khủng hoảng đó là, dẫu cho NHTW đã tồn tại nhưng chốt chặn cuối cùng của nền kinh tế khi các ngân hàng khi sụp đổ phải là một tổ chức khác – bảo hiểm tiền gửi.
Cuối cùng, người ta rút ra rằng, thật khó để thay đổi cách đối phó của Chính phủ thời kỳ hậu khủng hoảng – dẫu luôn có cơ hội để thay đổi nhưng lựa chọn phổ biến của các Chính phủ vẫn là sự can dự sâu sắc hơn vào nền tài chính.
Cho tận đến đêm ngay trước sự sụp đổ năm 1929 – cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất mà Mỹ từng phải đối mặt, mọi thứ vẫn còn đang là màu hồng. Công nghiệp ô tô và xây dựng tăng trưởng nhộn nhịp trong những năm 1920 và với việc làm ổn định mà hai ngành kinh tế thịnh vượng nhất tạo ra, tiền lương và tiêu dùng của người dân Mỹ đều đã được cải thiện. Năm 1925, hãng xe hơi Ford đạt sản lượng sản xuất trung bình 9.000 chiếc ô tô mẫu T mỗi ngày và chi tiêu cho xây dựng nhà mới đạt 5 tỷ USD. Dù vẫn xảy ra những va chạm trên đường đi (sự suy giảm vào năm 1923 và 1926) nhưng động lực tăng trưởng vẫn còn rất mạnh mẽ.
Mọi thứ cũng có vẻ tốt trong lĩnh vực ngân hàng. Năm 1928, bảng cân đối kế toán tổng hợp của toàn bộ 25.000 ngân hàng Mỹ lên tới 60 tỷ USD. Các tài sản được nắm giữ thận trọng với tỷ lệ cho vay ra là 60%, còn 15% được giữ dưới dạng tiền mặt. Ngay cả 20% dùng để đầu tư chứng khoán cũng có vẻ là một lựa chọn hợp lý khi tỷ lệ nắm giữ chủ yếu là trái phiếu và trong đó, lượng trái phiếu “siêu an toàn” được phát hành bởi Chính phủ đã chiếm hơn một nửa. Những tài sản chất lượng cao như vậy đều được ngân hàng bảo vệ khỏi việc mất giá trị bằng số vốn đệm dự phòng.

Tuy nhiên vào năm 1920, một Cục Dự trữ Liên bang mới thành lập bắt đầu phải đối mặt với một vấn đề hóc búa: khi giá cổ phiếu và giá hàng hóa trong các cửa hàng bắt đầu biến động trái chiều nhau. Thị trường đã bùng nổ đối với cổ phiếu của các công ty khai thác công nghệ mới như radio, nhôm và máy bay – đã trở nên đặc biệt phổ biến. Nhưng một vài trong số đó bắt đầu đạt kỷ lục về chi trả cổ tức và các nhà đầu tư tiếp tục dồn tiền vào cổ phiếu đó với hy vọng chúng sẽ tiếp tục tăng giá. Trong khi đó, công việc kinh doanh lại yếu đi và giá tiêu dùng sụt giảm. Và đó là thời gian mà một câu hỏi hóc búa được đặt ra và Fed trở nên khó xử giữa hai sự lựa chọn: liệu sẽ tăng lãi suất để thị trường bớt nóng lại hay giảm lãi suất để hỗ trợ nền kinh tế? Và cuối cùng, những ai không tham gia vào thị trường mới là người giành phần thắng: NHTW quyết định tăng lãi suất vào năm 1928.
![]() Hộp chỉ chứa chữ. Màu nền, viền, |
Đó là một sai lầm thảm họa. Biên độ tăng lãi suất từ 3,5% lên 5% là quá nhỏ để đẩy lùi sự nóng lên của thị trường: giá cổ phiếu tiếp tục tăng vọt đến thời điểm tháng 9/1929, khi chỉ số Dow Jones đạt 381 điểm – mức cao nhất lịch sử cho đến thời điểm đó. Không những vậy, lãi suất tăng còn làm tổn thương những ngành kinh tế đang suy giảm của Mỹ. Cho đến cuối mùa hè năm 1929, các ngành sản xuất đã giảm với tốc độ năm là 45%. Cùng với sự xấu đi của nền kinh tế trong nước, những tin tức bất lợi từ bên ngoài cũng ập đến. Vào tháng 9 năm đó, Sàn giao dịch Chứng khoán London sụp đổ khi Clarence Hatry, trùm lừa đảo trong ngành tài chính bị bắt. Và thế là xu hướng bán tháo bắt đầu. Một cách vô cùng mạnh mẽ: chỉ hơn 2 ngày (28/10-29/10), Dow Jones đã giảm gần 25%. Cho đến ngày 13/11, chỉ số này chỉ còn 198 điểm, giảm 45% trong vòng 2 tháng.
Điều tệ hơn tiếp tục xảy đến khi sự sụp đổ của hàng loạt ngân hàng đã cuốn thành những làn sóng. Làn sóng đầu tiên diễn ra vào năm 1930, khởi đầu bằng sự phá sản của các ngân hàng nông nghiệp thuộc sở hữu nhà nước như Arkansas, Illinois và Missouri. Tổng cộng có 1.350 ngân hàng đã phá sản trong năm đó. Làn sóng thứ hai ập đến những ngân hàng Chicago, Cleveland và Philadelphia – sụp đổ vào tháng 4/1931. Áp lực đến từ bên ngoài càng trở nên tồi tệ cùng với những lo lắng trong nước. Vì Anh rút khỏi chế độ bản vị vàng nên lãi suất tại Anh giảm xuống và đặt áp lực lên các nhà xuất khẩu của Mỹ. Những cơn hoảng loạn trong ngành ngân hàng còn xuất hiện ở Áo và Đức. Khi niềm tin mất dần, người Mỹ lại bắt đầu cất trữ tiền ở nhà. Trong khi chiến dịch mua trái phiếu của Fed chỉ mang lại hiệu quả tạm thời bởi các ngân hàng may mắn sống sót đã ở trong tình trạng hết sức tồi tệ.
Điều này trở nên rõ ràng vào tháng 2/1933. Cuộc hoảng loạn cuối cùng và lần này diễn ra trên quy mô toàn nước Mỹ, bắt đầu bằng những ban bố trong tình trạng khẩn cấp của các ngân hàng. Những ngân hàng đầu tiên phải đóng cửa trong làn sóng lần này là tại Nevada, Iowa, Louisiana và Michigan. Các ngân hàng nội địa có khoản tiền gửi liên ngân hàng tại các ngân hàng New York đã mất 760 triệu USD vào tháng 2/1933. Trong hoàn cảnh đó, thông thường các ngân hàng tại thành phố sẽ quay lại nhờ đến sự hỗ trợ cuối cùng của Fed. Nhưng điều không ai ngờ đến đã xảy ra. Vào ngày 4/3, NHTW đã làm chính xác những gì đã thiết lập để ngăn chặn cuộc khủng hoảng. Fed từ chối cho vay và đóng cửa tất cả các ngân hàng còn sống sót. Fed đã thất bại trong nhiệm vụ của mình là hoạt động như một nguồn quỹ trong mọi tình huống khẩn cấp. Quyết định một tuần dài các ngân hàng phải đóng cửa được ban bố trên toàn nước Mỹ.
Đó là tuần đen tối nhất trong những thời kỳ đen tối của nền tài chính Mỹ. Các nhà quản lý kiểm tra sổ sách của các ngân hàng và hơn 2.000 ngân hàng phải đóng cửa trong tuần đó đã không bao giờ mở cửa trở lại. Sau thời điểm tồi tệ nhất, thì cuối cùng mọi thứ bắt đầu được cải thiện. Nhưng di sản để lại của cuộc Đại khủng hoảng là gần 11.000 ngân hàng phá sản trong giai đoạn 1929-1933, cung tiền giảm hơn 30%. Tỷ lệ thất nghiệp, vốn chỉ 3,2% vào đêm ngay trước cuộc khủng hoảng, thì thời điểm đó đã tăng lên hơn 25% và không thể quay trở lại mức thấp như trước cho đến đầu những năm 1940. Và phải mất hơn 25 năm để Dow Jones trở lại mức đỉnh đã từng đạt được vào năm 1929.
Rõ ràng, cài cách là vô cùng cần thiết trong lúc này. Bước đầu tiên là loại bỏ rủi ro khỏi hệ thống ngân hàng. Trong ngắn hạn, mục tiêu này được thực hiện thông qua lượng cung tiền lớn để cung ứng vốn cho toàn bộ nền kinh tế. Với 1 tỷ USD – tương đương một phần ba quy mô vốn chủ sở hữu của hệ thống ngân hàng – được cung cấp cho hơn 6.000 ngân hàng trong số 14.000 ngân hàng còn tồn tại. Rủi ro trong tương lại đã bị vô hiệu hóa bởi điều luật mới, những quy tắc Glass-Steagall đã tách các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán ra khỏi những khoản cho vay đơn thuần và trao cho Fed một quyền lực mới để điều tiết đối với các ngân hàng có khách hàng sử dụng tín dụng để đầu tư.