Kỹ thuật lật đổ và thôn tính ‘lành nghề’ của ‘chú Sam’
Tuesday, December 24, 2013 22:52
% of readers think this story is Fact. Add your two cents.
Người Mỹ phá tan nát nhà người ta không phải như họ nói là vì muốn cho dân làm chủ, mà vì muốn Mỹ làm chủ. Đã gọi là đế quốc thì làm sao có chuyện cho dân làm chủ? Thế giới này dân chủ độc lập tự quyết hết thì đế quốc làm gì còn chỗ đứng?
Xin giới thiệu với độc giả cuộc phỏng vấn của nhà báo Amy Goodman với Stephen Kinzer – tác giả cuốn sách nổi tiếng ‘Overthrow:America’s Century of Regime Change fromHawaiitoIraq’. Trong cuốn sách này, tác giả cho rằng cuộc xâm lược Iraq năm 2003 không phải là một sự kiện cá biệt – riêng lẻ mà là điểm cao nhất của một giai đoạn 110 năm, trong đó người Mỹ đã lật đổ 14 chính quyền dám cả gan làm họ phật lòng vì nhiều lý do khác nhau như ý thức hệ, chính trị, kinh tế.
‘Cuộc xâm chiếm Iraq – trong một lúc ngắn ngủi nào đó – tưởng như đã thành công. Nhưng tới giờ thì đã rõ rằng kế hoạch này đã đem lại nhiều hậu quả không lường trước được, cũng giống như đại đa số những cuộc đảo chánh, cách mạng, xâm chiếm mà người Mỹ đã tổ chức thực hiện để lật đổ những chính quyền mà Mỹ lo sợ hay không tin tưởng’ -Stephen Kinzer.
- AMY GOODMAN: Ông đang tìm hiểu về 14 cuộc lật đổ mà Mỹ có dính dáng đến. Lý do chính để chính quyền Mỹ dính líu đến việc lật đổ những chính quyền của nước khác là gì?
- STEPHEN KINZER: Nhiều trong số những cuộc lật đổ đó đã được nghiên cứu riêng lẻ, nhưng việc tôi muốn làm trong cuốn sách này là xem xét chúng không phải như một chuỗi những sự việc cá biệt, mà là một sự liên tục kéo dài. Và với cách nhìn đó, tôi mới có thể phân định ra vài khuôn mẫu nhất định đã lập lại hết lần này tới lần khác. Tất cả những cuộc lật đổ này không theo cùng một khuôn mẫu, nhưng cũng đáng kinh ngạc khi nhiều trong số đó lại là như vậy. Chúng thường xảy ra theo 3 bước:
Đầu tiên là chế độ bị đặt dấu hỏi đó bắt đầu làm phiền vài công ty Mỹ. Họ bắt đầu đòi công ty đó đóng thuế hay phải tuân thủ luật lao động hay môi trường. Đôi khi công ty đó bị quốc hữu hóa hay bị bắt buộc phải bán một phần đất đai hay tài sản. Như vậy là việc xảy ra đầu tiên là một công ty Mỹ hay nước ngoài hoạt động trong một nước khác, và rồi chính quyền của nước đó bắt đầu hạn chế công ty đó bằng cách này hay khác hoặc gây một vài khó khăn, hạn chế khả năng hoạt động một cách tự do của công ty đó.
Kế đến thì các lãnh đạo của công ty đó tìm đến lãnh đạo chính trị của nước Mỹ để than phiền về chính quyền nước đó. Trong tiến trình chính trị tiếp theo xảy ra trong Nhà Trắng, động cơ này đổi dạng một chút. Chính quyền Mỹ không can thiệp trực tiếp để bảo vệ quyền của công ty đó, mà chuyển đổi cái động cơ ban đầu từ kinh tế sang một động cơ chính trị hay địa lý-chiến luợc. Họ quơ đũa cả nắm rằng bất kỳ chế độ nào dám làm phiền, nhũng nhiễu một công ty Mỹ thì nhất định là ghét người Mỹ, thiếu tự do, độc tài, hay chắc chắn là công cụ của một thế lực nước ngoài hay nhóm lợi ích nào đó muốn phá hoại nước Mỹ. Như thế động cơ đã chuyển từ kinh tế sang chính trị, mặc dù cơ sở thực sự của nó chưa bao giờ thay đổi.
Và bước cuối cùng là động cơ được đổi dạng thêm một lần nữa khi lãnh đạo Mỹ phải giải thích mục đích-động cơ của việc can thiệp-lật đổ chế độ đó với người dân Mỹ. Khi đó họ thường không dùng lý do kinh tế hay chính trị nói trên mà miêu tả những cuộc can thiệp này như một hành động giải phóng, chỉ là một dịp để giải phóng một quốc gia tội nghiệp bị đàn áp bởi một chế độ tàn bạo mà chúng ta (người Mỹ) chụp mũ là một chế độ độc tài, bởi vì không có một chế độ nào ngoài độc tài mà có thể làm phiền một công ty của Mỹ cả.
- AMY GOODMAN: Stephen Kinzer, Tôi muốn bắt đầu từ chỗ ông đã bắt đầu trong cuốn sách, và đó là Hawaii.
- STEPHEN KINZER: Nhiều người Mỹ không biết rằng Hawaii là một nước độc lập trước khi nó được sát nhập vào Mỹ. Câu chuyện này nếu nói ngắn gọn là, đầu thế kỷ 19, hàng trăm nhà truyền đạo người Mỹ, đa số từ New England, dong thuyền tới nơi họ gọi là Sandwich Islands để cống hiến đời họ cho (theo lời họ) việc chăn dắt những người mọi rợ ngoại đạo và dạy họ phước lành của nền văn minh Ki-tô.
Không lâu sau đó nhiều người trong số những nhà truyền giáo này và con cái của họ bắt đầu nhận ra rằng có thể kiếm rất nhiều tiền ởHawaii. Người bản xứ đã sản xuất đường từ xưa, nhưng họ chưa bao giờ hoàn thiện và xuất khẩu nó. Bằng việc dần dần lấy gần hết đất của người bản xứ, nhóm người từ chỗ thuộc về cái gọi là nhóm người truyền đạo xuất sắc này một phần đã rời bỏ con đường của Thượng đế, đi vào con đường thờ tiền bạc và thiết lập một chuỗi những đồn điền làm đường khổng lồ ở Hawaii, và họ trở thành rất giàu có từ việc xuất khẩu đường vào Mỹ.
Nhưng vào những năm đầu của thập niên 1890, nước Mỹ áp dụng thuế nhập khẩu rất nặng làm cho việc bán đường của Hawaii vào Mỹ trở nên không thể được, cho nên họ trở nên hoảng. Họ gần kề tới chỗ bị mất cơ đồ thịnh vượng đó, và họ đã tự tìm hiểu đề làm cách nào có thể tiếp tục xuất khẩu đường sang Mỹ.
Cuối cùng họ đã tìm ra câu trả lời. Lãnh đạo của những người cách mạngHawaii, nếu bà muốn gọi họ là như thế, là những người phần lớn là đến từ Mỹ, quyết định đếnWashington. Ông này gặp Bộ trưởng Hải quân, trình bày hoàn cảnh trực tiếp với Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Benjamin Harrison, và đã nhận được bảo đảm rằng nước Mỹ sẽ ủng hộ cuộc nổi loạn chống lại chế độ quân chủ Hawaii.
Và như thế ông ta trở lạiHawaiiđể tham gia một chuyên chính tam hùng, mà về căn bản là thực hiện cuộc cách mạng trên đấtHawaii. Ông ta là phần thứ nhất của tam hùng. Phần thứ hai là đại sứ Mỹ, chính ông này cũng là một người có khuynh hướng muốn nuốtHawaiivà đã được chỉ thị bởi Bộ Ngoại Giao làm bất cứ chuyện gì để giúp cuộc cách mạng này. Phần thứ ba của tam hùng là chỉ huy của tàu hải quân Mỹ, đang thả neo một cách rất tiện lợi ngay ngoài bờ biển củaHonolulu.
Cuộc cách mạng này đã được thực hiện dễ dàng tới mức kinh ngạc. Người cầm đầu của nhóm cách mạngHawaii, đám truyền giáo/ chủ đồn điền thượng lưu này, chỉ đơn giản tuyên bố trong một buổi họp rằng, ‘Chúng ta đã lật đổ chính quyềnHawaii, và bây giờ chúng ta là chính quyền mới’. Và trước khi nữ hoàng Hawaii có thể phản ứng, đại sứ Mỹ đã điều động 250 thủy quân lục chiến lên bờ từ chiếc tàu đang đậu một cách rất tiện lợi ngoài bờ Honolulu và tuyên bố rằng vì hiện đang có những bất ổn và thay đổi chính quyền, nên lính Mỹ sẽ đổ bộ để bảo vệ chế độ mới cùng tính mạng, tài sản của tất cả người Hawaii. Như vậy có nghĩa là nữ hoàngHawaii không thể làm gì hơn được nữa. Chế độ mới này ngay lập tức được công nhận bởi Mỹ, và với tiến trình đơn giản đó, chế độ quân chủ ở Hawaii đã kết thúc, dẫn tới việc cuối cùng là Hawaii sát nhập với Mỹ.
- AMY GOODMAN: Như vậy, đầu tiên là những nhà truyền giáo đặt chân tới, rồi sau đó là thủy quân lục chiến?
- STEPHEN KINZER: Vâng, chính xác là như vậy. Đôi khi chúng ta nghe nhóm từ ‘Chuyện buôn bán theo sau lá cờ’. Nhưng trong nghiên cứu của tôi, tôi tìm ra rằng thực ra lại là ngược lại. Đầu tiên là những hoạt động buôn bán, rồi sau đó là lá cờ. Lá cờ là cái đi sau chuyện buôn bán.
- AMY GOODMAN: Ông nói về 14 nước bị Mỹ can thiệp vào: Hawaii, Cuba, Philippines, Puerto Rico, Chile, Honduras,Iran, Guatemala, Việt Nam, Afghanistan, Iraq, Panama. Hãy nói về Cuba. Chuyện gì đã xảy ra?
- STEPHEN KINZER: Câu chuyện về Cuba rất ly kỳ, một phần vì nó phản ánh một trong những đề tài chính trong cuốn sách của tôi, và đó là làm thế nào mà những vụ can thiệp này về lâu dài sẽ nhất định sẽ tạo ra một chế độ chống đối Mỹ mạnh mẽ hơn nhiều so với chế độ ban đầu mà Mỹ đã đặt ra mục đích lật đổ.